Để hệ thống mạng làm việc trơn tru, hiệu quả và
khả năng kết nối tới những hệ thống mạng khác đòi hỏi phải sử dụng những thiết
bị mạng chuyên dụng. Những thiết bị mạng này rất đa dạng và phong phú về chủng
loại nhưng đều dựa trên những thiết bị cơ bản là Repeater, Hub, Switch, Router
và Gateway. Bài viết này sẽ giúp bạn đọc có được một những hiểu biết cơ bản về
các thiết bị mạng kể trên:
Repeater
Repeater
Trong một mạng LAN, giới hạn của cáp mạng là
100m (cho loại cáp mạng CAT 5 UTP – là cáp được dùng phổ biến nhất), bởi tín
hiệu bị suy hao trên đường truyền nên không thể đi xa hơn. Vì vậy, để có thể
kết nối các thiết bị ở xa hơn, mạng cần các thiết bị để khuếch đại và định thời
lại tín hiệu, giúp tín hiệu có thể truyền dẫn đi xa hơn giới hạn này.
Repeater là một thiết bị ở lớp 1 (Physical
Layer) trong mô hình OSI. Repeater có vai trò khuếch đại tín hiệu vật lý ở đầu
vào và cung cấp năng lượng cho tín hiệu ở đầu ra để có thể đến được những chặng
đường tiếp theo trong mạng. Điện tín, điện thoại, truyền thông tin qua sợi
quang… và các nhu cầu truyền tín hiệu đi xa đều cần sử dụng Repeater.
Hub
Hub được coi là một Repeater có nhiều cổng. Một
Hub có từ 4 đến 24 cổng và có thể còn nhiều hơn. Trong phần lớn các trường hợp,
Hub được sử dụng trong các mạng 10BASE-T hay 100BASE-T. Khi cấu hình mạng là
hình sao (Star topology), Hub đóng vai trò là trung tâm của mạng. Với một Hub,
khi thông tin vào từ một cổng và sẽ được đưa đến tất cả các cổng khác. Hub
có 2 loại là Active Hub và Smart Hub. Active Hub là loại Hub được dùng phổ
biến, cần được cấp nguồn khi hoạt động, được sử dụng để khuếch đại tín hiệu đến
và cho tín hiệu ra những cổng còn lại, đảm bảo mức tín hiệu cần thiết. Smart
Hub (Intelligent Hub) có chức năng tương tự như Active Hub, nhưng có tích hợp
thêm chip có khả năng tự động dò lỗi - rất hữu ích trong trường hợp dò tìm và
phát hiện lỗi trong mạng.
Bridge
Ưu điểm của Bridge là hoạt động trong suốt, các
máy tính thuộc các mạng khác nhau vẫn có thể gửi các thông tin với nhau đơn
giản mà không cần biết có sự "can thiệp" của Bridge. Một Bridge
có thể xử lý được nhiều lưu thông trên mạng như Novell, Banyan... cũng như là
địa chỉ IP cùng một lúc. Nhược điểm của
Bridge là chỉ kết nối những mạng cùng
loại và sử dụng Bridge cho những mạng hoạt động nhanh sẽ
khó khăn nếu chúng không nằm gần nhau về mặt vật lý.
Switch
Switch đôi khi được mô tả như là một Bridge
có nhiều cổng. Trong khi một
Bridge chỉ có 2 cổng để
liên kết được 2 segment mạng với nhau, thì Switch lại có khả năng kết nối được
nhiều segment lại với nhau tuỳ thuộc vào số cổng (port) trên Switch. Cũng giống
như Bridge , Switch cũng "học"
thông tin của mạng thông qua các gói tin (packet) mà nó nhận được từ các máy
trong mạng. Switch sử dụng các thông tin này để xây dựng lên bảng Switch, bảng
này cung cấp thông tin giúp các gói thông tin đến đúng địa chỉ.
Ngày nay, trong các giao tiếp dữ liệu, Switch
thường có 2 chức năng chính là chuyển các khung dữ liệu từ nguồn đến đích, và
xây dựng các bảng Switch. Switch hoạt động ở tốc độ cao hơn nhiều so với
Repeater và có thể cung cấp nhiều chức năng hơn như khả năng tạo mạng LAN ảo
(VLAN).
Router
Router là thiết bị mạng lớp 3 của mô hình OSI
(Network Layer). Router kết nối hai hay nhiều mạng IP với nhau. Các máy tính
trên mạng phải "nhận thức" được sự tham gia của một router, nhưng đối
với các mạng IP thì một trong những quy tắc của IP là mọi máy tính kết nối mạng
đều có thể giao tiếp được với router.
Ưu điểm của Router: Về mặt vật lý, Router có thể
kết nối với các loại mạng khác lại với nhau, từ những Ethernet cục bộ tốc độ
cao cho đến đường dây điện thoại đường dài có tốc độ chậm.
Nhược điểm của Router: Router chậm hơn Bridge
vì chúng đòi hỏi nhiều tính toán hơn để tìm ra cách dẫn đường cho các gói tin,
đặc biệt khi các mạng kết nối với nhau không cùng tốc độ. Một mạng hoạt động
nhanh có thể phát các gói tin nhanh hơn nhiều so với một mạng chậm và có thể
gây ra sự nghẽn mạng. Do đó, Router có thể yêu cầu máy tính gửi các gói tin đến
chậm hơn. Một vấn đề khác là các Router có đặc điểm chuyên biệt theo giao thức
- tức là, cách một máy tính kết nối mạng giao tiếp với một router IP thì sẽ
khác biệt với cách nó giao tiếp với một router Novell hay DECnet. Hiện nay vấn
đề này được giải quyết bởi một mạng biết đường dẫn của mọi loại mạng được biết
đến. Tất cả các router thương mại đều có thể xử lý nhiều loại giao thức, thường
với chi phí phụ thêm cho mỗi giao thức.
Gateway
Gateway cho phép nối ghép hai loại giao thức với
nhau. Ví dụ: mạng của bạn sử dụng giao thức IP và mạng của ai đó sử dụng giao
thức IPX, Novell, DECnet, SNA... hoặc một giao thức nào đó thì Gateway sẽ đổi từ giao thức này sang giao thức khác.
Qua
Gateway, các máy tính trong các mạng sử dụng các giao thức khác nhau có thể dễ
dàng "nói chuyện" được với nhau. Gateway không chỉ phân biệt các giao
thức mà còn còn có thể phân biệt ứng dụng như cách bạn chuyển thư điện tử từ
mạng này sang mạng khác, chuyển đổi một phiên làm việc từ xa...
SỰ KHÁC NHAU CỦA
HUB,SWITCH VÀ ROUTER
Ngày nay, hầu hết các router đều là thiết bị kết
hợp nhiều chức năng, và thậm chí nó còn đảm nhận cả chức năng của switch và hub.
Đôi khi router, switch và hub được kết hợp trong
cùng một thiết bị, và đối với những ai mới làm quen với mạng thì rất dễ nhầm
lẫn giữa chức năng của các thiết bị này.
Nào chúng ta hãy bắt đầu với hub và switch bởi
cả hai thiết bị này đều có những vai trò tương tự trên mạng. Mỗi thiết bị dều
đóng vai trò kết nối trung tâm cho tất cả các thiết bị mạng, và xử lý một dạng
dữ liệu được gọi là “frame” (khung). Mỗi khung đều mang theo dữ liệu. Khi khung
được tiếp nhận, nó sẽ được khuyếch đại và truyền tới cổng của PC đích. Sự khác
biệt lớn nhất giữa hai thiết bị này là phương pháp phân phối các khung dữ liệu.
Với hub, một khung dữ liệu được truyền đi hoặc
được phát tới tất cả các cổng của thiết bị mà không phân biệt các cổng với nhau.
Việc chuyển khung dữ liệu tới tất cả các cổng của hub để chắc rằng dữ liệu sẽ
được chuyển tới đích cần đến. Tuy nhiên, khả năng này lại tiêu tốn rất nhiều
lưu lượng mạng và có thể khiến cho mạng bị chậm đi (đối với các mạng công suất
kém).
Ngoài ra, một hub 10/100Mbps phải chia sẻ băng thông với tất cả các cổng của
nó. Do vậy khi chỉ có một PC phát đi dữ liệu (broadcast) thì hub vẫn sử dụng
băng thông tối đa của mình. Tuy nhiên, nếu nhiều PC cùng phát đi dữ liệu, thì
vẫn một lượng băng thông này được sử dụng, và sẽ phải chia nhỏ ra khiến hiệu
suất giảm đi.
Trong khi đó, switch lưu lại bản ghi nhớ địa chỉ
MAC của tất cả các thiết bị mà nó kết nối tới. Với thông tin này, switch có thể
xác định hệ thống nào đang chờ ở cổng nào. Khi nhận được khung
dữ liệu, switch sẽ biết đích xác cổng nào cần gửi tới, giúp tăng tối đa thời
gian phản ứng của mạng. Và không giống như hub, một switch 10/100Mbps sẽ phân
phối đầy đủ tỉ lệ 10/100Mbps cho mỗi cổng thiết bị. Do vậy với switch, không
quan tâm số lượng PC phát dữ liệu là bao nhiêu, người dùng vẫn luôn nhận được
băng thông tối đa. Đó là lý do tại sao switch được coi là lựa chọn tốt hơn so
với hub.
Còn router thì khác hoàn toàn so với hai thiết
bị trên. Trong khi hub hoặc switch liên quan tới việc truyền khung dữ liệu thì
chức năng chính của router là định tuyến các gói tin trên mạng cho tới khi
chúng đến đích cuối cùng. Một trong những đặc tính năng quan trọng của một gói tin
là nó không chỉ chứa dữ liệu mà còn chứa địa chỉ đích đến.
Router thường được kết nối với ít nhất hai mạng,
thông thường là hai mạng LAN hoặc WAN, hoặc một LAN và mạng của ISP nào đó.
Router được đặt tại gateway, nơi kết nối hai hoặc nhiều mạng khác nhau. Nhờ sử
dụng các tiêu đề (header) và bảng chuyển tiếp (forwarding table), router có thể
quyết định nên sử dụng đường đi nào là tốt nhất để chuyển tiếp các gói tin.
Router sử dụng giao thức ICMP để giao tiếp với các router khác và giúp cấu hình
tuyến tốt nhất giữa bất cứ hai host nào.
Ngày nay, có rất nhiều các dịch vụ được gắn với
các router băng rộng. Thông thường, một router bao gồm 4-8 cổng Ethernet switch
(hoặc hub) và một bộ chuyển đổi địa chỉ mạng - NAT (Network Address
Translator). Ngoài ra, router thường gồm một máy chủ DHCP (Dynamic Host
Configuration Protocol), máy chủ proxy DNS (Domain Name Service), và phần cứng
tường lửa để bảo vệ mạng LAN trước các xâm nhập trái phép từ mạng Internet.
Tất cả các router đều có cổng WAN để kết nối với
đường DSL hoặc modem cáp – dành cho dịch vụ Internet băng rộng, và switch tích
hợp để tạo mạng LAN được dễ dàng hơn. Tính năng này cho phép tất cả các PC
trong mạng LAN có thể truy cập Internet và sử dụng các dịch vụ chia sẻ file và
máy in.
Một số router chỉ có một cổng WAN và một cổng
LAN, được thiết kế cho việc kết nối một hub/switch LAN hiện hành với mạng WAN.
Các switch và hub Ethernet có thể kết nối với một router để mở rộng mạng LAN.
Tuỳ thuộc vào khả năng (nhiều cổng) của mỗi router, switch hoặc hub, mà kết nối
giữa các router, switche/hub có thể cần tới cáp nối thẳng hoặc nối vòng. Một số
router thậm chí có cả cổng USB và nhiều điểm truy cập không dây tích hợp.
Một số router cao cấp hoặc dành cho doanh nghiệp
còn được tích hợp cổng serial – giúp kết nối với modem quay số ngoài, rất hữu
ích trong trường hợp dự phòng đường kết nối băng rộng chính trục trặc, và tích
hợp máy chủ máy in mạng LAN và cổng máy in.
Ngoài tính năng bảo vệ được NAT cung cấp, rất
nhiều router còn có phần cứng tường lửa tích hợp sẵn, có thể cấu hình theo yêu
cầu của người dùng. Tường lửa này có thể cấu hình từ mức đơn giản tới phức tạp.
Ngoài những khả năng thường thấy trên các router hiện đại, tường lửa còn cho
phép cấu hình cổng TCP/UDP dành cho game, dịch vụ chat, và nhiều tính năng khác.
Và như vậy, có thể nói một cách ngắn gọn là: hub
được gắn cùng với một thành phần mạng Ethernet; switch có thể kết nối hiệu quả
nhiều thành phần Ethernet với nhau; và router có thể đảm nhận tất cả các chức
năng này, cộng thêm việc định tuyến các gói TCP/IP giữa các mạng LAN hoặc WAN,
và tất nhiên còn nhiều chức năng khác nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét